Mua từ 3 bộ miễn phí vận chuyển
1 bộ bao gồm:+ Hộp đựng bằng nhựa, có nhiều màu để lựa chọn;
+ 1 miếng ngậm bằng nhựa dẻo EVA;
Miếng ngậm có 2 cỡ, cỡ phổ thông và cỡ to. Người bình thường dùng cỡ phổ thông, chỉ người có khuôn hàm to hơn hẳn mới cần dùng cỡ to.
Gửi hàng trong ngày khu vực Hà Nội. Nhận hàng thu tiền toàn quốc.
Có tới 80% người mắc chứng nghiến răng khi ngủ, có thể gây ra tiếng kêu to, nhỏ hoặc không kêu. Nghiến răng có nhiều nguyên nhân, nhưng dù là nguyên nhân gì thì cũng khiến mặt nhai của răng bị chà xát gây mòn men răng và ảnh hưởng tới chân răng do bị lực tác động mạnh một cách vô thức khi ngủ.
Khi nghiến răng, các cơ hàm bị co thắt khiến cho người bệnh bị mỏi, đau các cơ, đau đầu và cổ. Trường hợp các cơ này hoạt động quá mức có thể sẽ bị phì đại, làm khuôn mặt mất dần sự cân xứng hoặc có dạng vuông do phì đại các cơ cắn ở cả hai bên.
Nghiến răng còn gây ra rối loạn khớp thái dương-hàm. Người bệnh sẽ thấy những triệu chứng khó chịu hoặc bị đau ở khớp, há miệng khó, có tiếng kêu lục cục khi há miệng hoặc đau đầu.
Nguyên nhân gây ra tật nghiến răng chưa được xác định rõ ràng nên không có thuốc hoặc cách điều trị hết nghiến răng. Nhưng các nhà khoa học thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa tình trạng căng thẳng (stress) và nghiến răng.
Miếng ngậm này có tác dụng giảm tác hại của tật nghiến răng khi ngủ. Nó đóng vai trò là một lớp đệm có độ đàn hồi giữa 2 hàm răng, giảm thiểu lực tác động khi nghiến răng. Giúp người sử dụng có giấc ngủ chất lượng, bảo vệ hàm răng cũng như sức khỏe nói chung.
✓ Chống nghiến răng, giúp bảo vệ răng men răng và chân răng;
✓ Bảo vệ răng khi chơi các môn thể thao có cường độ cao;
✓ Không gây khó chịu khi ngậm, không cộm trong miệng;
✓ Dễ dàng định hình cho phù hợp khuôn răng mỗi người;
✓ Dùng được cho cả người lớn và trẻ em.
+ Hộp đựng bằng nhựa;
+ 1 khay răng chống nghiến răng;
Trọng lượng cả hộp: 53g
Kích thước hộp: dài x rộng x cao = 8,2 x 7,8 x 2,8 cm (có sai số do đo thủ công)
Hàm răng mỗi người thì có những đặc điểm khác nhau, có thể là độ vòng cung của hàm răng, chiều cao, chiều dày của răng, hình dạng, kích thước, vị trí, khoảng cách các răng. Miếng chống nghiến răng sản xuất ra theo hình vòng cung răng chuẩn nên chưa thể vừa vặn với hàm răng người dùng. Khi ngậm vào miệng nó sẽ tì đè vào răng gây đau mỏi, ngậm lâu thấy khó chịu.
Định hình khuôn răng tức là làm miếng ngậm có hình dạng như khuôn răng người dùng. Để khi lắp vào hàm răng nó sẽ khớp khít với hàm răng, không tì đè vào răng gây đau mỏi và đỡ phồng, cộm khi ngậm. Khi định hình theo khuôn răng được rồi thì ngậm lâu, ngậm qua đêm sẽ không còn khó chịu nữa.
Tuy nhiên việc ngậm một vật lạ trong miệng khi ngủ cũng chưa thể thoải mái ngay từ đầu. Cần có thời gian để quen, hãy cố gắng chấp nhận những khó chịu nhỏ ban đầu để giữ gìn hàm răng bạn.
Bạn phải làm mềm khay răng bằng nước nóng rồi cho vào hàm cắn nhẹ để tạo hình theo khuôn răng mình với các bước sau:
1. Nhúng khay răng vào nước nóng (80-85 độ C) trong 30-50 giây để làm mềm;
Mẹo: Pha đều 1 phần nước nguội với 2 phần nước sôi hoặc nóng già để ngâm miếng ngậm. Nếu nước chưa đủ nóng để làm mềm miếng ngậm thì đổ nước đi, pha lại nước mới với tỷ lệ nóng cao hơn 1 chút. Cứ thế tới khi nước đủ nóng để làm mềm miếng ngậm. Lưu ý chỉ tăng độ nóng lên dần dần, chút một.
2. Lắp khay răng vào hàm trên cắn nhẹ, ngậm tự nhiên để tạo hình theo khuôn răng mình, dùng tay ấn nhẹ xung quanh và dùng lưới đẩy bên trong để bờ khay răng ép sát vào răng;
* Đối với người có khuôn miệng nhỏ hoặc trẻ em thì phải cắt bớt đều cả 2 bên khay răng (phần trong răng hàm), sau đó thực hiện tạo hình theo khuôn răng như hướng dẫn ở trên.
Khay chống nghiến răng được làm bằng vật liệu cao cấp tuân theo các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Có thể tạo lại khuôn, vì vậy nếu bạn không hài lòng với khay đã định hình, bạn có thể lặp lại các bước trên để tạo khuôn răng như bạn muốn.
Khi ngủ lắp khay răng vào hàm trên, sáng dậy rửa sạch, cất vào hộp đựng.
Chỉ sử dụng sau khi đã định hình miếng ngậm theo khuôn răng mình để tránh bị đau mỏi khi ngậm.
Ngậm trong miệng, lắp vào hàm trên.
Đặt lưỡi lên phía hàm trên, ngay chân răng cửa.
Ngậm miệng, thở bằng mũi.
Dùng xong lấy ra khỏi miệng, rửa sạch, để khô rồi bảo quản trong hộp
Không dùng nước nóng hoặc hóa chất để rửa.
Hàng tuần dùng bàn chải đánh răng và kem răng để vệ sinh.
Tùy theo mức độ nghiến răng của người sử dụng, cần thay miếng chống nghiến sau thời gian từ 3-6 tháng để đảm bảo miếng ngậm đem lại hiệu quả cao nhất.
Lưu ý: Khi ngậm nếu có cảm giác buồn nôn là do miếng ngậm dài quá chạm vào phần cuống lưỡi hoặc khu vực gần hầu họng. Để hết cảm giác đó chỉ cần cắt bớt miếng ngậm đi là được. Miếng ngậm không cần phải dài tới răng trong cùng vẫn có tác dụng chống nghiến cho cả hàm răng.
Có tới 80% dân số mắc tật nghiến răng. Nguyên nhân chưa được làm rõ nhưng người ta nhận thấy nó liên quan tới trạng thái căng thẳng (stress). Hiện chưa có thuốc chữa khỏi tật nghiến răng.
Lực nghiến của 2 hàm răng rất lớn. Nghiến răng trong trạng thái vô thức khi ngủ làm sứt mẻ răng dẫn tới hỏng răng.
Dễ nhận thấy nhất là mặt nhai của răng bị mài mòn
Men răng bị vỡ do lực nghiến của răng
Các tổ chức răng bị trơ ra (hình 3D mô phỏng)
Các tổ chức răng bị trơ ra (ảnh thật)
Nghiến răng là tật khá phổ biến ở người lớn và trẻ em nhưng phần lớn chúng ta không biết cách để kiểm soát, vì thế nó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nghiến răng là tình trạng khi các răng ở hai hàm nghiến siết với nhau. Thực tế, nó có thể xảy ra không chỉ khi ngủ mà còn xuất hiện khi thức, khi tập trung quá mức, giận dữ hay quá căng thẳng... là những thời điểm chúng ta không nhận thức được.
Nguyên nhân
Người có tật nghiến răng thường được phát hiện bởi những người xung quanh (nghiến răng khi thức) hoặc người ngủ cùng (nghiến răng khi ngủ). Nghiến răng nhiều gây mòn răng; mẻ răng; nhạy cảm răng (nhẹ hay nặng tùy vào tổn thương mòn răng); đau tai nhưng không có tổn thương ở tai; mỏi, căng cơ hàm, đau khi ăn nhai ở một bên mặt.
Nguyên nhân của nghiến răng được cho là liên quan tới các yếu tố sau:
Yếu tố thần kinh: Nghiến răng có thể liên quan đến các yếu tố tâm lý và thần kinh như căng thẳng, lo lắng hoặc ở những người có tính cách hiếu thắng, hoạt động quá mức.
Rối loạn giấc ngủ: Những người có rối loạn giấc ngủ như ngủ ngáy, ngủ chập chờn, mê sảng, hội chứng ngưng thở khi ngủ, bóng đè hoặc ảo giác khi ngủ có liên quan mật thiết đối với tật nghiến răng.
Thuốc: Nghiến răng cũng có thể là tác dụng phụ của việc dùng một số thuốc an thần như phenothiazin, thuốc chống trầm cảm...
Bệnh lý: Có thể là hậu quả của các bệnh lý như trào ngược dạ dày - thực quản, bệnh Parkinson... Thậm chí hàm răng lệch lạc, khớp cắn không phù hợp cũng có thể là nguyên nhân gây ra nghiến răng.
Nghiến răng ở trẻ em
Tỷ lệ của người nghiến răng có xu hướng giảm dần theo tuổi, trẻ em nghiến răng nhiều hơn người lớn và thấp nhất sau độ tuổi 65. Điều này có thể liên quan tới sự chưa hoàn thiện của hệ thống thần kinh cơ và các rối loạn về giấc ngủ cũng như tâm lý chưa ổn định, dễ bị tác động bởi môi trường xung quanh ở trẻ em. Nhưng tỷ lệ thấp ở người cao tuổi lại được cho rằng đó là tuổi mà răng đã rụng hoặc không còn đủ vững chắc để tiếp tục tật nghiến răng.
Nghiến răng ở trẻ thường xuất hiện sau khi mọc những răng phía trước vào khoảng 1 tuổi, trẻ có tật thở miệng hoặc các bệnh lý viêm nhiễm đường hô hấp, amidan lớn, hen suyễn; đặc biệt trẻ mắc hội chứng tăng động giảm chú ý, những trẻ trong độ tuổi tới trường với áp lực học tập cao có tỷ lệ nghiến răng cao hơn.
Các biến chứng có thể gặp của nghiến răng
Hầu hết các trường hợp nghiến răng không gây ra những biến chứng nghiêm trọng, tuy nhiên nghiến răng mức độ nặng và thường xuyên có thể gây ra một số biến chứng như: tổn thương răng, xương hàm, các phục hình răng; nhạy cảm răng do mòn răng; rối loạn khớp thái dương hàm; đau vùng đầu mặt.
Khắc phục tật nghiến răng
Hậu quả thường đến sau thời gian dài mắc tật nghiến răng nên việc giảm thiểu tác hại là thực sự cần thiết. Mục tiêu là giảm đau, giảm các ảnh hưởng tới răng, phục hình, khớp thái dương hàm và hạn chế tối đa việc nghiến răng. Đôi khi, để đạt mục đích này phải điều trị với việc đi thăm khám bác sĩ, bao gồm các liệu pháp trị liệu, thuốc, can thiệp nha khoa.
Các cách khắc phục:
Giảm căng thẳng: Nếu việc nghiến răng gây ra do căng thẳng, bệnh nhân cần áp dụng các phương pháp làm giảm căng thẳng như thay đổi môi trường, tập thể dục, thư giãn; điều trị các rối loạn về giấc ngủ (nếu có), duy trì các thói quen có lợi cho sức khỏe như đi ngủ đúng giờ, massage cơ mặt, tránh sử dụng các chất kích thích như uống rượu, hút thuốc, uống đồ uống có cafein, đặc biệt là vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Thay đổi thói quen vận động hàm và điều chỉnh hàm về vị trí thích hợp. Việc điều chỉnh các thói quen phụ thuộc vào ý chí người bệnh, có thể mất nhiều thời gian và cần sự hỗ trợ của nha sĩ cũng như các chuyên gia tâm lý.
Thuốc: Nhìn chung thuốc không thực sự có hiệu quả trong điều trị tật nghiến răng, nó chỉ có tác dụng để làm giảm sự căng cơ quá mức do nghiến răng mà thôi. Một số thuốc có thể được sử dụng đó là thuốc giãn cơ (sử dụng trước khi đi ngủ) hoặc tiêm botox để điều trị đối với những người nghiến răng nặng không đáp ứng với điều trị.
Can thiệp nha khoa: Các điều trị nha khoa có tác dụng bảo vệ răng, tuy nhiên không phải lúc nào cũng điều trị được dứt điểm tật nghiến răng.
Dùng miếng chống nghiến: Có tác dụng bảo vệ mặt răng khỏi sự mài mòn gây ra do nghiến rang và cũng có tác dụng điều chỉnh thói quen vận động hàm, do đó cũng làm hạn chế nghiến răng.
Nắn chỉnh răng: Mục đích để điều chỉnh khớp cắn về vị trí phù hợp, làm giảm các tác động quá mức lên cơ nhai cũng như răng. Trong trường hợp nặng như mòn răng nhiều, nhạy cảm răng, bệnh nhân thậm chí còn cần phải phục hồi lại hình thể răng để khôi phục tương quan răng phù hợp giữa hai hàm.
Nghiến răng là một tật không nguy hiểm tới tính mạng nhưng dai dẳng và có thể để lại những hậu quả nặng nề đối với răng miệng, đòi hỏi sự kiên trì trong điều trị cũng như sự phối hợp của nhiều chuyên ngành trong y khoa. Cha mẹ cũng nên quan sát và chú ý tới tật nghiến răng ở trẻ để có những can thiệp và khắc phục kịp thời, vì nghiến răng cũng có thể liên quan tới các bệnh lý khác hoặc các vấn đề về tâm lý như tâm tư, nguyện vọng của trẻ.